Phật Ấn Là Ai

Phật Ấn Là Ai

Đức Phật là ai và liệu Ngài có thật hay không? Có lẽ đây là điều rất nhiều người khi mới đầu tìm hiểu về Phật pháp đều thắc mắc. Để hiểu rõ hơn về vị đấng tối cao cũng như cuộc đời và lời dạy của Ngài. Chúng tôi sẽ cung cấp tới độc giả những thông tin cơ bản nhất về người có tầm ảnh hưởng lớn trong dòng tôn giáo và lâu đời nhất trên thế giới.

Đức Phật là ai và liệu Ngài có thật hay không? Có lẽ đây là điều rất nhiều người khi mới đầu tìm hiểu về Phật pháp đều thắc mắc. Để hiểu rõ hơn về vị đấng tối cao cũng như cuộc đời và lời dạy của Ngài. Chúng tôi sẽ cung cấp tới độc giả những thông tin cơ bản nhất về người có tầm ảnh hưởng lớn trong dòng tôn giáo và lâu đời nhất trên thế giới.

Tên Phật Thích Ca có hai nghĩa là Năng nhân và Tịch mặc:

“Nhân” ở đây là nhân đức, nhân từ, và “năng” là năng lực, là sức mạnh. Vậy “Năng nhân” có nghĩa là “sức mạnh của lòng từ bi”.

Sức mạnh này đã trở thành một năng lực vĩ đại để Đức Phật Thích Ca có thể cứu khổ cho chúng sinh một cách vô điều kiện. Đối với Đức Phật Thích Ca, tình thương Ngài dành cho chúng sinh luôn bình đẳng. Và trở thành sức mạnh có thể chuyển hóa được mọi khổ đau cho chúng sinh, giúp chúng sinh đạt được giác ngộ.

“Tịch mặc” ở đây được hiểu là “trí tuệ”. “Tịch” chính là có trí tuệ thấu đáo ngoại cảnh. “Mặc” nghĩa là có trí tuệ để đối diện với chính nội tâm mình. Trong cuộc sống này, những thành bại, thịnh suy, vinh nhục đều không làm dao động được Đức Phật. Ngài đã tu khổ hạnh 6 năm trong núi tuyết. Trong 6 năm ấy, Ngài đã đối diện với đói, rét, với lời chê bai, chọc tức. Tới độ chim đến làm tổ trong tai Ngài vẫn ngồi im bất động. Khi Ngài chứng được thần thông, Ngài còn nghe thấy cả tiếng chim cãi nhau trong tai nhưng Ngài vẫn ngồi bất động.

Chúng ta lại luôn làm nô lệ cho ngoại cảnh, nô lệ cho cái thân thể này. Chúng ta ham ăn, ham ngủ, ham thụ hưởng, tức là chúng ta đang làm nô lệ cho cái thân và ngoại cảnh. Cảnh thịnh thì ta vui, cảnh suy thì chúng ta buồn.

Chúng ta giống như những con rối trên sân khấu cuộc đời: “Tâm mình là con rối – để cho đời sớm tối giật dây”. Còn Đức Phật Thích Ca, trong 6 năm tu tập, mỗi bữa Ngài chỉ ăn một hạt mè. Dĩ nhiên cái đói khát đó không dẫn Ngài đến sự giác ngộ nhưng cũng phải chứng minh được nghị lực kiên cường của Ngài.

Kinh Đức Phật dạy rằng: “Chiến thắng trăm quân chưa phải là chiến công oanh liệt. Người chiến thắng chính mình mới là người oanh liệt nhất”.

Trong cuộc sống thế gian, có thể chúng ta đánh gục rất nhiều đối thủ trên thương trường, trong cơ quan nhưng lại không đánh gục được ham muốn. Người anh hùng nhất là người chiến thắng được chính mình. Khi đối trước mọi biến động của ngoại cảnh, tâm Ngài vẫn bất động cho nên chúng ta gọi Ngài là Tịch.

Chữ “Mặc” mang nghĩa nội tâm. Trong đêm thành Đạo của Đức Phật, khi đó có đủ các loại ma: ma sân, ma tham, ma danh vọng, ma ái… xuất hiện. Gọi là ma không phải là ma bên ngoài mà chính là tâm của người trước khi thành đạo. Nhưng Đức Phật không để các trạng thái tâm như tham – sân – giận – ghét – ái dục – vô minh chi phối.

Kinh Mười hai nhân duyên có vẽ hình ảnh một bà già mù, còng lưng dẫn dắt chúng ta. Không phải một kiếp mà hàng bao nhiêu kiếp. Bà già ấy trong Kinh gọi là Vô minh. Bà già ấy đã mù nhưng lôi chúng ta hết kiếp này sang kiếp khác, quanh quẩn trong sáu đạo luân hồi không ra khỏi được.

Lòng từ bi của Đức Phật Thích Ca ban trải khắp cứu độ muôn loài, trí tuệ của Ngài rực sáng để bình lặng trước cuộc đời. Như vậy danh hiệu của Đức Phật Thích Ca gồm cả hai khía cạnh Từ bi và Trí tuệ. Đức Phật nào cũng sẽ có đủ hai phần như vậy.

Cả cuộc đời của Ngài là tấm gương sáng về Từ bi và Trí tuệ. Là đệ tử của Phật, chúng ta phải thừa hưởng được gia tài Ngài để lại cho chúng sinh. Đó không phải là kho báu thế gian thông thường mà chính là Từ bi và Trí tuệ. Gia tài ấy mỗi chúng ta đều có nhưng vì chúng ta quên mất không biết sử dụng nên chúng ta vẫn mãi quanh quẩn trong vòng khổ luân hồi mà thôi!

Mời quý sư Thầy, sư Cô, Phật tử xem các tác phẩm tượng Phật Bổn Sư Thích Ca do Buddhist Art sáng tác TẠI ĐÂY

Đức Phật có phải Thượng đế không?

Tìm hiểu về cuộc đời của Đức Phật, chúng ta có thể khẳng định Ngài không phải là Thượng đế. Ngài là một người bình thường như tất thảy chúng ta. Chỉ khác rằng, Ngài đã đạt đến cảnh giới của sự giác ngộ. Đó là một sự thức tỉnh ở tầm cao của trí tuệ khai thông và tâm linh tối thượng.

Lịch Sử, Cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni

Trong kinh kể rằng: một đời trước của Đức Phật Thích Ca, Ngài từng là một vị Thái tử. Trong một lần vào rừng, Ngài nhìn thấy năm mẹ con hổ đang vật vã vì đói. Hổ mẹ quá đói và không còn sữa cho con bú nên kiệt sức chờ chết.

Chứng kiến cảnh đó, Thái tử rất đau lòng và muốn bố thí luôn thân mạng của mình cho hổ đói. Ngài đã đưa đầu mình vào miệng hổ nhưng do đã quá kiệt sức nên hổ mẹ cũng không ăn nổi. Ngài bèn dùng dao rạch thân thể mình cho máu chảy ra đầm đìa. Lúc rạch thân mình như vậy Ngài phát ra lời nguyện: “Trong kiếp này tôi dùng thân máu thịt để bố thí cho năm mẹ con hổ. Và mong rằng trong kiếp vị lai khi thành Phật, tôi sẽ dùng tuệ mạng để cứu cho các vị thoát khỏi luân hồi!”.

Khi phát nguyện xong, máu từ thân Ngài chảy ra đầm đìa và hổ mẹ liếm được máu đó mới có sức để ăn thịt Ngài. Trong kiếp sau này khi Ngài thành Phật, năm mẹ con hổ đói chính là năm anh em ông Kiều Trần Như, năm đệ tử đầu tiên của Đức Phật. Khi Ngài vừa thành Phật, người đầu tiên Ngài độ và chứng qua A la hán chỉ sau một bài pháp về Tứ diệu đế của Ngài chính là năm anh em ông Kiều Trần Như.

Trở thành vị đấng tối cao có sức ảnh hưởng trong tôn giáo

Vào năm 544 trước Tây lịch, Đức Phật niết bàn ở tuổi 80. Tư thế của Ngài được sử sách tả lại rằng: Ngài nằm giữa hai cây Sala, đầu hướng về phương Bắc, mình nghiêng về bên phải, bàn tay phải ngửa lên lót dưới mặt, tay trái xuôi thẳng theo hông, hơi thở nhẹ nhàng. Một tư thế khoan thai chưa từng thấy.

“Này các đệ tử, hãy nghe Như Lai nói đây: Vạn pháp vô thường, có sinh ắt có diệt. Các thầy hãy tinh tấn lên để đạt tới sự giải thoát” – đó là câu nói cuối cùng trước lúc ngài về cõi hư vô.

Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni là ai?

Đức Phật Bổn Sư Thích Ca chính là bậc Thầy gốc của đạo Phật. Ngài là bậc giác ngộ thấu rõ chân lý của vạn pháp. Thị hiện trong hình tướng của loài người. Ngài đi vào cõi Ta bà để khai sáng Ánh đạo vàng cho nhân gian.

điều cấm kỵ trong Phật Giáo Hòa Hảo

Trong giáo lý của Phật Giáo Hòa Hảo có 8 điều cấm mà bất cứ tín đồ nào cũng không được phạm phải:

Hy vọng với những thông tin của bài viết, các bạn đã hiểu hơn về Phật Giáo Hòa Hảo.

Xem thêm: Tượng Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Bằng Đá Đẹp

Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni là ai và lịch sử cuộc đời Đức Phật như thế nào? Mời bạn cùng Buddhist Art theo dõi qua bài viết dưới đây:

Chi tiết về cuộc đời của người có tầm ảnh hưởng lớn trong tôn giáo

Nói về cuộc đời của Đức Phật, chúng tôi có thể tóm lược qua 2 giai đoạn chính: trước khi Ngài nhận ra chân ái của cuộc đời mình và chính thức trở thành tu sĩ. Đó là một cuộc đời rất thật, trải qua khổ hạnh và ưu tư khắc khoải để tìm ra sự giải thoát cho mình.

Đức Phật thường được gọi là Phật Thích Ca Mâu Ni sống cách đây khoảng 2500 năm tại Ấn Độ. Vốn xuất thân trong dòng dõi quý tộc, cha của Ngài là vua của bộ tộc Thích Ca. Tại kinh thành Ca Tỳ La Vệ, vào năm 624 trước Tây lịch, hoàng hậu đã hạ sinh Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm (sau này chính là Phật Thích Ca Mâu Ni). Thời khắc thái tử chào đời, các tu sĩ đã tiên tri rằng Tất Đạt Đa Cồ Đàm không phải người thường. Sau này, Ngài sẽ trở thành một vị vua vĩ đại hoặc một nhà tu sĩ lừng danh có tầm ảnh hưởng lớn trong thế giới loài người.

Vì không muốn con trai mình xuất gia. Nhà vua luôn giữ thái tử ở trong cung điện và cho Ngài hưởng thụ mọi điều xa hoa phú quý trong cuộc sống để quên đi hồi hướng về đạo pháp. Thái tử được học cưỡi ngựa, bắn cung, đấu kiếm…. Ngài còn được hầu hạ bởi những vũ nữ xinh đẹp. Đến tuổi trưởng thành, thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm kết hôn và có một cậu con trai.

Mặc dù có một cuộc sống đủ đầy, nhưng thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm lại không cảm nhận được trọn vẹn chữ “đủ” ấy. Ngài luôn cảm thấy thiếu một điều gì đó, vượt ra khỏi giới hạn của vật chất. Mỗi ngày qua đi, sự thôi thúc, khao khát tìm kiếm ngày càng lớn dần.

Thái tử vừa ra khỏi kinh thành liền có ba cảnh tượng chưa từng thấy hiện lên trước mắt ngài. Đó là một người bị bệnh, một người già yếu và một xác chết đang được đưa đi hỏa thiêu. Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm ngạc nhiên quá đỗi, còn các tùy tùng lại cho ngài biết rằng đó là hiện thực bình thường của cuộc sống người dân hằng ngày.

Ngài cảm thấy mình không thể bình tâm để sống trong phú quý được nữa. Trên đường về, thái tử gặp một người tu sĩ nhẹ bước thong dong trên đường. Tất cả những hình ảnh ấy liên tục xáo trộn trong đầu thái tử. Đêm hôm đó, sau khi lặng lẽ đứng nhìn vợ con yên giấc, thái tử quyết định rời cung. Đến một khu rừng nọ, Ngài cởi phăng chiếc áo hoàng tộc, dùng gươm cắt tóc rồi khoác lên mình áo tu hành. Đó là năm thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm 29 tuổi. Sau này, các nhà nghiên cứu Phật pháp cho rằng đó chính là căn duyên của Đức Phật.

Giải thoát sự khổ đau, tìm đến con đường tu đạo

Để đạt đến cảnh giới giác ngộ, Đức Phật không đi trên con đường hoa hồng. Ngài đã đến rất nhiều vị thầy khác nhau, từ rừng núi đến thành thị để tìm đúng người truyền giảng. Cuối cùng ngài chọn 2 vị thầy nổi tiếng là đạo sư Alara-Kalama và Uddaka Ramaputta. Với sự tinh thông của mình, thái tử Tất Đạt Đa đã học và đắc ngũ thần thông. Mặc dù được 2 vị này mời ở lại dạy đạo như người đồng đẳng. Nhưng Ngài nhận thấy cả 2 con đường này đều không dẫn đến sự giải thoát khổ đau nên quyết định rời đi.

Sau 6 năm sau đó, Ngài cùng 5 người bạn tu hành theo pháp khổ hạnh. Mỗi ngày chỉ ăn một hạt cơm, lấy tâm trí tịnh tâm để đua với những nhu cầu sinh tồn thể xác. Dù vậy, mọi sự không được như thỏa nguyện, trong khi cơ thể ngày càng ốm yếu, chỉ còn da bọc xương. Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm quyết định không tu khổ hạnh nữa, Ngài tìm đến thực phẩm để nạp năng lượng cho cơ thể của mình. Những người bạn thấy vậy đã bỏ rơi Ngài vì cho rằng thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm không kiên định trong việc tu luyện.

Ngài đến khất thực ở một ngôi làng, được mời ăn cháo sữa và mật ong. Khi sức khỏe đã dần ổn định, Ngài xuống sông tắm rồi ngồi thiền tại gốc cây bồ đề. Đó là thời khắc Ngài đã ngấm đủ lý thuyết giảng dạy của các vị đạo sư, học đủ kinh sách. Đồng thời trải qua thực hành pháp môn và đang trong sự thảnh thơi không vướng bận: không gia đình, không nơi ở, không lo lắng muộn phiền.

Ngồi thiền tọa bất động trong 7 ngày liền và khi mở mắt ra Ngài thấy một ánh sáng huyền diệu tỏa sáng. Đó chính là thời điểm giác ngộ, Ngài nhận ra mình đã thấy được cái chưa bao giờ mất. Bởi lẽ đó Ngài không có gì phải tìm kiếm nữa. “Điều kỳ diệu nhất ở sự giác ngộ này vốn là chân tánh của chúng sanh, nhưng họ lại không an lạc vì thiếu đi điều đó” – câu nói này đã được đánh dấu bởi sự giác ngộ của thái tử Tất Đạt Đa vào năm Ngài 35 tuổi khi trở thành Đức Phật.

Xem thêm: Tranh Hoa Sen thờ Phật

Sau 45 năm, Ngài đã đặt chân đến nhiều vùng đất khác nhau, nói bằng ngôn ngữ dễ hiểu nhất để truyền bá giáo lý. Ngài không chỉ tiếp cận các tu sĩ mà còn gặp gỡ và nói chuyện với tất cả mọi người để mong họ tìm được sự an lạc. Sử sách còn ghi chép lại một câu chuyện cảm động rằng có một người mẹ đến cầu xin Đức Phật cho đứa con đã qua đời sống lại. Ngài chỉ nhẹ nhàng bảo bà mẹ rằng hãy mang về một nắm hạt cải của gia đình không có ai qua đời trước đó. Rốt cuộc, bà mẹ buồn bã về tay không, Ngài dạy để họ ngộ ra rằng cái chết đều có thể đến với tất cả mọi người.